7 Cải Tiến Mang Tính Cách Mạng Trong Golf
16:34:00 02/11/2022

Lịch sử phát triển của trang thiết bị gậy golf vô cùng phong phú, các nhà sản xuất đã nghiên cứu rất nhiều để đưa ra được những sự cải tiến tạo nên những trái bóng và cây gậy hỗ trợ cho người chơi golf.

Nói chơi Golf có nhiều cải tiến về thiết bị hơn các môn thể thao khác không phải là một ý kiến suông. Ta hãy nhìn vào những con số để thấy rõ hơn điều này. 40 năm qua, trong số hàng chục nghìn bằng sáng chế được cấp trong lĩnh vực thể thao, những cải tiến về golf nhiều gấp đôi so với các ý tưởng dành cho các môn thể thao khác như bóng đá, bóng chày, bóng rổ, khúc côn cầu, quần vợt, bơi lội, bowling, bóng đá, lacrosse và trượt tuyết cộng lại.

Có những sự kỳ vọng và có cả sự chê bai, các thiết bị chơi golf đã không ngừng phát triển trong suốt 70 năm qua, khoảng thời gian mà ta có thể chứng kiến sự đổi mới liên tục từ thập kỷ này sang thập kỷ khác

Tất nhiên, với sự cải tiến như vậy, việc chọn một đại diện cho mỗi 7 thập kỷ qua đồng nghĩa với việc bỏ qua những phát minh đáng nhớ (Softspikes, gậy hybrids và máy đo thông số,..). Nhưng, không kể bạn là một nhà vô địch hay người chơi mới, thì bạn cũng nên biết rằng 7 cải tiến dưới đây là những cái điển hình.

Những năm 1950 : Grip chống trơn

Huấn luyện viên huyền thoại Harvey Penick đã từng nói: Grip chống trơn đã thay đổi cuộc đời của những tay golf chuyên nghiệp”. Khi GOLF Pride ( sau đó được biết đến như là công ty Fawick Flexi-Grip) cho ra đời grip chống trơn vào năm 1953, không chỉ thay đổi số mệnh của những cây gậy đánh golf chuyên nghiệp, mà về cơ bản đã làm thay đổi cả ngành sản xuất dụng cụ chơi golf và quan trọng hơn là nghiên cứu và phát triển gậy đánh golf.

Rib Lock Grib ( thứ 3 từ phải sang) và các loại grib cao su đặc biệt ra mắt vào những năm 1950, trong quá trình sản xuất đã bỏ đi một công đoạn vô cùng tẻ nhạt và tốn thời gian đó là lưu hóa cao su lên mỗi cán gậy. Điều này đã mở một hướng đi mới cho các nhà thiết kế trong việc cải tiến đầu gậy và cán gậy. Vì thế, ngày nay chúng ta mới có những loại tay cầm có thể thay đổi, từ trọng lượng, hình đạng, kích thước, cho đến kết cấu và màu sắc để phù hợp với sở thích của mỗi người.

Có thể dễ dàng nhận thấy rằng việc thay thế phần tay cầm bằng da vừa nặng, vừa dính,vừa kém bền bằng một hợp chất đòi hỏi những cấu phức tạp để cải thiện sự tiếp xúc giữa tay với gậy sẽ làm cho những cú swing của bạn tốc độ và có lực hơn. Những loại grip kiểu mới này còn giúp người chơi cảm nhận được ví trị đặt tay thích hợp.

Có lẽ thiếu sót duy nhất trong sự phát triển của tay cầm cao su chống trượt là nhiều golfer sẽ nhận ra rằng tất cả những thiếu kế mới đáng chú ý này chỉ hoạt động nếu bạn thay thế những thiết kế cũ.

Những năm 1960 : Perimeter-weighted Putter

Bản gốc của Ping 1-A rất sơ sài. Solheim đã khoan một lỗ trên đầu và gắn một cái trục vào đó. 

“Tôi không tài nào chợp mắt được vào đêm hôm ấy” Ông nói. Vào thời điểm đó, hầu hết các gậy putter đều là mặt gậy blade.

Cây gậy 1-A là một bước tiến lớn, Perimeter weighting là một bước đột phá trong thiết kế gậy và trở thành một phần của cây gậy putter Ping Anser mang tính biểu tượng và có hàng loạt những bản sao sau này.

Những năm 1970 : Shaft gậy Graphite

Có thể hơi ngạc nhiên khi biết rằng một trong những cải tiến nhất trong 70 năm qua ban đầu có chút thất bại. Đó là chính là shaft gậy graphite.

Được làm từ sợi cabon ban đầu được phát triển cho chương trình không gian, dường như trong 20 năm đầu được đưa vào sử dụng, shaft graphite không có những tính năng tối ưu như bây giờ. Những golfer chuyên nghiệp của PGA Tour gặp khó khăn trong việc kiểm soát độ mềm của các loại shaft này, nhưng cũng không thể phủ nhận sợi cacbon bên trong shaft giúp tiết kiệm trọng lực. Graphite có độ bền gấp 14 lần thép và các shaft gậy graphite có trọng lượng bằng nửa các các loại shaft thép. Cho nên giờ đây, những người chơi golf trung niên và lớn tuổi có thể ở trong cuộc chơi lâu hơn, và người chơi có thể thực hiện những cú swing nhanh và mạnh hơn.

Tuy nhiên phải đến giữa những năm 1980, Aldila mới bắt đầu giải quyết các vấn đề về độ chịu lực của shaft graphite. Chiến thắng của Lary Nelson tại PGA Championship năm 1987 là dấu ấn đầu tiên của shaft gậy graphite. Trong suốt 3 thập kỷ, sợi cacbon tổng hợp thống trị thị trường Metalwood shaft thậm chí còn trở thành chìa khóa cho cách chế tạo đầu gậy. Cán gậy graphite đã chứng minh một điều rằng vật liệu dùng trong ngành công nghệ cao có thể cung cấp giải pháp cho golf.

Những năm 1980: Cavity-Back Irons 

Ping Eye2 không phải là gậy sắt perimeter-weighted đầu tiên của Karsten Solheim, nhưng lại là thiết kế kế có ý nghĩa nhất.

Được biết đến nhiều nhất với các rãnh vuông khác biệt, Eye 2 là một sự thay đổi ngoạn mục từ những chiếc gậy blade muscle-back đươc sử dụng trước đó. Mọi chi tiết trên mỗi cổ gậy đều đã được tính toán rất kỹ càng, từ độ khum, bán kính của đế, hình dáng của đầu mặt gậy cho đến thiết kế phía sau mặt gậy. 

 

Các rãnh vuông phần lớn được cho là tạo ra độ xoáy lớn, nhưng Karsten khẳng định rằng đó là thiết kế của cổ gậy giúp đầu gậy xoay xuống dưới khi impact, do đó sẽ làm tăng độ xoáy của bóng. Phần cổ thuôn nhọn về 2 đầu dẫn đến phần giữa hẹp lần đầu tiên được đưa vào thiết kế trên phiên bản năm 1984 của Eye2. Sau đó là một vài phiên bản của Eye2, bao gồm một phiên bản có trọng lượng nhẹ hơn và mẫu làm từ đồng beryllium.

Lịch sử của gậy Eye2, loại gậy sắt bán chạy nhất trong gần 1 thập kye, sẽ không còn được chú ý như nó đã từng. Vì ngay sau đó các nhà sản xuất khác đã sao chép các thiết kế perimeter-weighted, caviry-back kể cả những thương hiệu như: Mac Gregor, Wilson, Tommy Armour và Ben Hogan. Tạp chí Golf World đã tóm tắt về Solheim như thế này: “Karsten mở ra một con đường mới, chứng minh rằng một sự đổi mới hữu ích, phi truyền thống sẽ được thế giới golf chấp nhận”.

Những năm 1990: Oversize Driver

 

Bản tóm tắt của PGA Merchandise Show năm 1991 có một câu mà có lẽ sẽ ít người chú ý đến : “Callaway đã có một “cú hit” với Big Bertha, một chiếc gậy driver bằng thép không gỉ ngoại cỡ”.

Hơn cả “một cú hit”, những gì đã xảy ra nên được miêu tả như một hiện tượng văn hóa. Big Bertha là một bước đột phá về kích thước, làm cho gậy driver - chuyển từ chiếc gậy mà người chơi dùng để kiểm soát bóng trở thành gậy chuyên để phát những pha bóng tốc độ. Ngành công nghiệp không bao giờ né tránh việc nghiên cứu những chiếc gậy to hơn và tốt hơn cho đến khi USGA đưa ra giới hạn về kích thước đầu gậy.

Với kích thước 190cc, Big Bertha lớn hơn 30% so với hầu hết các gậy drive khác vào thời điểm đó, nhưng lại bé hơn 60% so với hiện nay. Chiếc gậy này là ý tưởng của Dick Helmstetter- thiên tài thiết kế của Callaway.

Đến năm 1993, Big Bertha là chiếc gậy drive số 1 trong các giải đấu ở Mỹ và trở thành cây gậy bán chạy nhất vào thời điểm lúc bấy giờ. Hai năm sau, Callaway vẫn phát triển vượt bậc nhờ Big Bertha.

Vì vậy, Big Bertha không chỉ phát triển một mà là 2 công nghệ và đã làm thay đổi vĩnh viễn ngành sản xuất thiết bị.

Năm 2000: Những quả bóng có nhiều lớp lõi và vỏ ngoài bọc urethan

 

Mùa xuân năm 2000, khi Hal Sutton nghe tin Tiger Woods đã  đổi từ  bóng Titleist Profesional sang bóng Tour Accuracy lõi cứng, bọc urethan của Nike, anh ấy nói : “Điều này có thể thay đổi hoàn toàn cuộc đời của một con người”.

Hóa ra, ngành công nghiệp sản xuất bóng golf đã phát triển vượt bậc. Lớp vỏ ngoài làm bằng vật liệu urethane, các lõi bên trong dày dặn giúp tăng tốc độ bóng và giảm độ xoáy.

Ngày càng nhiều người chơi chú ý đến, nhưng với những golf thủ giỏi nhất ý tưởng này không được công nhận hoàn toàn. Tuy nhiên, sau khi Tiger Woods dùng thử những trái bóng đầu tiên, ghi nhận 6 chiến thắng trên 8 sự kiện, bao gồm 3 giải major. Điều này đã làm thay đổi toàn bộ giải đấu và cả thị trường, nhất là khi Titleist cũng bắt tay vào sản xuất loại bóng này với tên gọi “ quả bóng trong phòng thí nghiệm”. Dự án thử nghiệm đó đã phát minh ra dòng bóng ProV1 hiện nay. 

Những năm 2010 : Gậy driver có khả năng tùy chỉnh

Sự đổi mới thú vị nhất của golf trong thập kỷ qua ko bắt nguồn từ bộ phận nghiên cứu và phát triển của các công ty thiết bị lớn, mà ở văn phòng của các tổ chức có vai trò hạn chế sự đổi mới của các thiết bị. Khi Hiệp hội Golf Hoa Kỳ (USGA) nới lỏng các giới hạn về khả năng tùy chỉnh đầu gậy vào năm 2005, điều này đã đặt nền móng cho một loại tùy chỉnh mới.

Giờ đây thay vì cần phải có nhiều đầu gậy để điều chỉnh, thì một đầu gậy duy nhất có thể làm được tất cả. Bắt đầu với gậy TaylorMade với 4 nấc điều chỉnh trọng lượng đã cho phép người chơi golf và bà của họ có thể chơi cùng một gậy, chỉ là tùy chỉnh khác đi.

Gậy driver có khả năng tùy chỉnh xâm chiếm thị trường trong suốt 10 năm qua, tùy chỉnh trọng lượng di động và Hosel tùy chỉnh để tạo ra nhiều thay đổi về độ loft, góc lie (góc ngiêng trên mặt đất). Điều đó tạo nên sự đa dạng trong thi đấu và mở ra một động thái mới trong việc thửa gậy. Người chơi có thể dễ dàng kết hợp hàng nghìn cái đầu gậy với cán gậy chỉ với vài thao tác đơn giản.

Vào giữa thập kỷ, đinh vít trên các cây gậy đã được thay thế bằng các mối trượt thậm chí còn nặng hơn như TaylorMade SLDR năm 2014 và sau đó là TaylorMade M5, sử dụng 2 mối trượt và một cổ gậy xoay 12 chiều với hơn 21,000 kiểu điều chỉnh ở mỗi đầu gậy. 

 

 

 

Phạm Duy Dương